Nhìn từ góc độ của một trong những người làm kinh tế, phát triển đội ngũ những người có năng lực lao động sáng tạo trong lĩnh vực CNTT và Viễn thông nhằm đem lại nhiều giá trị thiết thực và ổn định phát triển kinh doanh cho Doanh nghiệp. Chúng tôi nhìn nhận Đổi mới Giáo dục theo hai mục đích:
– Bắt nguồn từ sự kế thừa truyền thống Cha Ông, tinh thần “Hiếu học” và nhìn lại các hoạt động cách tân giáo dục đầu thế kỷ 20 để nhận thức được rõ ràng sự đổi mới, cách mạng, tính hiện đại trong triết lý giáo dục và phương thức thực hiện đầy sáng tạo của các nhà giáo dục canh tân thời đó.
– Từ nhận thức được giá trị Canh tân đem vào thời kỳ Đổi mới nhằm khuyến khích giáo dục áp dụng nhiều phương pháp giáo dục mới, cách tân giáo dục và cụ thể hơn chính là hướng các giáo viên, học sinh, sinh viên đến với những sự nghiệp “Giác ngộ giáo dục”.
Nhìn từ góc độ kinh tế: Sản phẩm của giáo dục chính là những con người được giác ngộ giáo dục, chất lượng giáo dục phải được đánh giá bằng yếu tố kinh tế và văn hóa.
Đánh giá hiện trạng:
Suốt 5 năm qua, Doanh nghiệp chúng tôi đã thực hiện nhiều đợt tìm hiểu, nghiên cứu và có đánh giá với tình hình phát triển năng lực và chất lượng nhân lực CNTT của Việt Nam thông qua các đánh giá của nhiều vị lãnh đạo các Trường Đại học tại Việt Nam:
Tôi xin dẫn chứng như:
Ông Nguyễn Việt Hải, Phó hiệu trưởng Đại học Hải Phòng, cũng cho rằng chất lượng đào tạo nhân lực CNTT hiện còn một khoảng cách khá xa so với thực tế. “Tuy nhiên. cũng cần phân biệt rõ : nhiệm vụ của các trường đại học là đào tạo kiến thức cơ bản chứ không phải là đào tạo kiểu dạy nghề. Còn để sinh viên ra trường có thể nhanh chóng nhập cuộc với doanh nghiệp, cần phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp,” ông Hải nói. Trên thực tế thì sự gắn kết này còn khá lỏng lẻo. Không có mấy doanh nghiệp đặt vấn đề với nhà trường phải đào tạo sinh viên như thế nào. Theo ông Hải, doanh nghiệp nên phối hợp với nhà trường để giúp đào tạo giai đoạn cuối, hoặc đào tạo bổ sung những kiến thức thực tế với khoảng thời gian vài tháng.
Ông Nguyễn Hồng Anh, Phó giám đốc Đại học Đà Nẵng, cho rằng do đặc thù của thị trường lao động CNTT là phục vụ cho rất nhiều lĩnh vực, ngoài kiến thức về tin học còn đòi hỏi các kiến thức chuyên ngành và nhiều kỹ năng khác, nên việc tái đào tạo là cần thiết. Hiện nay, đa số các nhà tuyển dụng đều đánh giá sinh viên Việt Nam cần cù, sáng tạo và có kiến thức cơ bản tốt. Song, ngoại ngữ còn yếu nên họ chưa phát huy hết khả năng của mình. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực CNTT, theo ông Hồng Anh, một trong những vấn đề bức thiết hiện nay là áp dụng mọi biện pháp để nâng cao trình độ ngoại ngữ. “Một trong những biện pháp mà các nước đã áp dụng là quy định sinh viên phải có chứng chỉ ngoại ngữ mới được nhận bằng tốt nghiệp. Điểm ràng buộc ở đầu ra này sẽ tạo động lực mạnh mẽ và bắt buộc sinh viên phải cố gắng đạt được trình độ ngoại ngữ theo quy định. Bên cạnh đó, cần tăng cường các chương trình hợp tác đào tạo và giảng dạy trực tiếp bằng ngoại ngữ cho sinh viên” .
Cơ hội và thách thức:
Theo Bộ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông Lê Doãn Hợp, chất lượng nguồn lao động thấp là một trong những lực cản phát triển của ngành CNTT-truyền thông Việt Nam. Với dự án nhà máy lắp ráp và kiểm định chip tại TP.HCM, Intel dự định tuyển 4.000 người lao động. Thế nhưng, khi phỏng vấn 2.000 sinh viên năm cuối, chỉ có khoảng 100 sinh viên đạt yêu cầu tuyển dụng. Cũng như vậy, Renesas Việt Nam có nhu cầu tuyển 500 kỹ sư, nhưng trong hai năm chỉ tuyển được 60 người trong số 1.000 người dự tuyển. Và số được tuyển còn phải qua đào tạo thêm từ 3-6 tháng mới có thể làm việc…
Công ty chúng tôi sau gần 5 năm mới tuyển dụng được 30 người sau đó phải qua đào tạo 4- 5 tháng mới có thể làm việc, một bài toán rất nan giải, kém hiệu quả cho Doanh nghiệp khi phải đầu tư nhân lực tại thị trường Việt Nam.
Câu hỏi của chúng tôi hôm này vẫn đồng nghĩa với câu hỏi cách đây 5 năm của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân: “CNTT Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với làn sóng đầu tư quy mô chưa từng có. Song, nỗi lo ngại lớn nhất hiện nay là làm thế nào tìm đủ nguồn nhân lực CNTT đáp ứng được nhu cầu”.
Trải nghiệm thực tiễn:
Với hơn 16 năm làm công tác Công nghệ thông tin, nhiều năm học tập, nghiên cứu và làm việc tại nước ngoài. Tôi xin phép đưa ra 2 ví dụ và có cả nhận định của tôi về vấn đề Giáo dục tại Việt Nam như sau:
- Tôi đã bỏ ra rất nhiều dịp để hỏi các bạn hữu và những người có vai trò quan trọng trong công tác quản lý giáo dục tại nước ngoài (nước Đức) như: Luật sư kinh tế chính sách đối ngoại Thu Lan Böhm, Bác sĩ Jens Kroll Đại học y khoa Munich đều cùng cho biết những con số đáng buồn của sinh viên Việt Nam:
– Hơn 63% sinh viên không theo được hệ thống tín chỉ châu âu ECTS, không chủ động, không có óc sáng tạo và không tập trung thời gian cho học tập trau dồi kinh nghiệm.
– 20% trong số đó xin được hạ cấp từ trình độ đại học xuống cao đẳng để theo đuổi học hàm (mặc dù trong số đó có 3 -4 thạc sĩ bảo vệ ở Việt nam).
– Điểm yếu mà họ nhận thấy nhất đó là tính chủ động giao tiếp ngoại ngữ, CNTT quá yếu không có nhiều kỹ năng xử lý, và đặc biệt không biết đến khái niệm “Năng lực tổng hợp trong lĩnh vực chuyên sâu”.
- Thời gian công tác ở các tổ chức như: FAO, Hải quan Italia, Tây ban Nha và ở Đức tôi có cơ hội tiếp xúc và làm việc với các sinh viên trường Đại học Kinh tế Rome Tor Vergata.
– Thầy hiệu trưởng đọc lời hứa hẹn như sau:
Sau hai năm đào tạo chuyên sâu, sinh viên sẽ được chuẩn bị tốt như các nhà kinh tế để bắt đầu một nghề nghiệp trong:
· Các cơ quan nghiên cứu của chính phủ các tổ chức kinh tế quốc gia và quốc tế.
· Các tập đoàn lớn.
· Ngân hàng lớn.
· Tổ chức tài chính và các trung tâm nghiên cứu.
– Sau tháng đầu tiên tôi được nghe thầy Phó hiệu trưởng đọc báo cáo tình hình học tập “thất bại”:
· 90% sinh viên điểm dưới trung bình môn Khoa học máy tính.
· 85% sinh viên điểm dưới trung bình môn kỹ thuật máy tính.
· 64% sinh viên điểm kém môn thống kê xử lý trên mạng máy tính và cả ngoại ngữ (Anh ngữ – hóa ra họ cũng kém tiếng Anh như ta vậy ?).
– Ngay sau đó, thầy chủ nhiệm khoa đưa ra một số yêu cầu thay đổi trong học tập:
· Các sinh viên phải tham gia kết hợp nghiên cứu sâu lý thuyết kinh tế và nghiên cứu cẩn thận các vấn đề thế giới thực tại và các tổ chức kinh tế.
· Các giáo viên trong quá trình đào tạo sinh viên kinh tế học lý thuyết 40% và ứng dụng thực tế ở mức cao nhất 60%, thông qua quá trình làm việc trực tiếp với các chuyên gia của FAO, tham gia hội thảo, và nghiên cứu giám sát trong một môi trường hỗ trợ CNTT.
· Cuối chương trình cần có các cuộc thi chứng chỉ ngắn hạn về CNTT, về IELTS.
– Sau 1 năm, chính chúng tôi cũng không thể ngờ được rằng các bạn sinh viên lại có thể vượt qua những kỳ thi khó khăn đó một cách tuyệt vời: 100% tốt nghiệp với 22 chứng chỉ MBC (Microsoft Business Certificate) , 22 MBA với tầm cỡ quốc tế đã chờ đón họ, họ được đánh giá là các sinh viên có “Năng lực tổng hợp trong lĩnh vực chuyên sâu”. Giờ thì họ đang làm ở các vị trí rất quan trọng như FAO, Hải quan, bệnh viện quốc tế…
Như vậy, tôi đã có may mắn để tổng hợp và nhìn lại suy nghĩ của mình, so sánh nó vời nhiều cách nhìn và quan điểm của nhiều người về giáo dục nói chung, trong đó có giáo dục bậc Đại học ở Việt Nam.
Chắc chắn rằng, nếu chúng ta không đưa thêm một hoặc nhiều hình thức đào tạo tín chỉ mới để đạt chất lượng tiêu chí chuẩn Quốc tế, chúng ta sẽ luôn bị luẩn quẩn, thụt lùi trong bài toán đầu ra cho cơ hội nghề nghiệp của sinh viên, đầu ra không đáp ứng chất lượng nhân lực của Doanh nghiệp…
Chúng tôi cũng đồng quan điểm với chủ trương của Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia mở trường đào tạo CNTT, khuyến khích hình thành những trung tâm đào tạo bổ sung để nâng cấp trình độ nhân lực CNTT sau khi đã tốt nghiệp đại học. Bên cạnh đó, cũng khuyến khích việc thuê các giáo viên, chuyên gia nước ngoài hoặc Việt kiều giảng dạy tại các trường đào tạo CNTT. Ngoài ra, còn tăng cường giảng dạy bằng những giáo trình tiếng Anh và đẩy mạnh mối liên kết giữa doanh nghiệp và nhà trường. “Chúng ta tham gia đào tạo CNTT trong bối cảnh thật đặc biệt, vì thế cần phải có cách làm phù hợp,” Phó thủ tướng Nguyễn thiện Nhân nói.
Điểm mấu trốt hay là Câu hỏi mở:
Hướng nghiệp là một phương pháp học trong lĩnh vực đổi mới giáo dục bậc Đại học ?
Đã từ lâu, chúng ta quan niệm đã là “Học Hướng nghiệp” nghĩa là học ở trình độ “thợ” hay là “thấp”. Thậm trí trong phương pháp đào tạo của Chúng ta là nghiễm nhiên đào tạo “Hướng nghiệp” nghĩa là đào tạo các trình độ Trung cấp hoặc Cao đẳng.
Đã nói tới “Hướng nghiệp” thì nói tới bằng cấp “thấp” chất lượng không cao vì không được một tổ chức Quốc tế nào công nhận.
Xét từ góc độ kinh tế và văn hóa chúng ta đang đánh giá và thực hiện sai vi trí của “Hướng nghiệp”, vì chỉ coi “Hướng nghiệp” như là đào tạo thợ thủ công, kỹ thuật bậc thấp khi so sánh với bậc đào tạo Đại học.
Ngày nay chúng ta đang thiếu thợ nghề thừa kỹ sư, cử nhân. Trong khi đầu ra của bậc Đại học là các kỹ sư, cử nhân hầu hết bị đánh giá là lý thuyết suông, có năng lực rất thấp về thực hành, hay gọi là không có tính “thợ nghề” thiếu hẳn “Năng lực tổng hợp trong các lĩnh vực chuyên sâu” .
Vậy, nên chăng chúng ta cần một hình thức đào tạo hệ thống “Hướng nghiệp” cho bậc Đại học luôn đi với nó là bộ môn tiêu chuẩn Quốc tế về giảng dậy và Chứng chỉ Quốc tế ?
Công ty chúng tôi đang đảm nhiệm trọng trách này với hơn 70 trường Đại học, cao đẳng và hơn 200 trường PTTH, PTCS trên toàn Quốc, con số này đang tăng lên hàng ngày.
– Nâng cấp hệ thống dịch vụ Email Outlook Live miễn phí, không giới hạn số lượng hòm thư cho tất cả các Trường thuộc Sở và Bộ GD&ĐT.
– Tư vấn triển khai các dịch vụ công nghệ điện toán, lưu trữ dữ liệu giảng dậy.
– Tập huấn, chuyển giao công nghệ quản trị và phát triển các dịch vụ Cổng thông tin Đào tạo.
– Đào tạo hệ thống “Hướng nghiệp” cho tất cả các bậc học yêu thích, đam mê và khát khao Công nghệ cao và mới.
– Thi chứng chỉ và cấp bằng đào tạo tín chỉ Quốc tế:
· Hệ đào tạo văn phòng với chứng chỉ MBC.
· Hệ đào tạo chuyên gia mạng CNTT với chứng chỉ IT PRO.
· Hệ đào tạo chuyên gia CNTT, giải pháp Cổng thông tin với chứng chỉ MCTS.
· Ngoài ra còn có các hệ đào tạo ngắn hạn: Quản trị dự án, PMI, CRM…
Hà nội, 10/10/2011
Lê Toàn Thắng.
Luận chứng:
– Kế thừa truyền thống:
Nhà văn Nguyên Ngọc coi Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào Duy Tân “là một hiện tượng đặc sắc, một tỉnh ngộ anh minh và dũng cảm khác thường, một nhận thức mới có tính chất chuyển thời đại, còn mới mẻ và thiết thực cho đến tận ngày nay”.
Nguyên Ngọc, “Một bước nhận thức mới về Đông Kinh nghĩa thục và phong trào Duy Tân”, Chu Hảo và các tác giả khác, “Một trăm năm Đông Kinh nghĩa thục, NXB Tri Thức, 2008, tr. 6.
– Giá trị canh tân:
Bùi Khánh Thế, từ quan điểm ngôn ngữ học, khảo sát văn bản Văn minh tân học sách mà ông coi như một tuyên ngôn chính trị văn hóa của cuộc vận động duy tân và vai trò của chữ quốc ngữ trong đổi mới giáo dục.
– Quan điểm đổi mới giáo dục thời Canh tân:
Vũ Thế Khôi đi sâu phân tích cơ sở triết học của việc “thay hẳn hệ thống giáo dục với triết lý tĩnh bằng triết lý động” của các lãnh tụ Duy Tân – Nghĩa thục.
– Giá trị đổi mới trong thời Canh tân:
Trịnh Văn Thảo về Công ty Liên Thành, một công ty kinh doanh theo lối tư bản do các nhà canh tân về kinh tế ở miền trung và miền nam sáng lập vào năm 1906, cho thấy khẩu hiệu Chấn hưng Công thương của phong trào Duy Tân đã biến thành thực tại sinh động và thành công như thế nào.
Nhiều tác giả. “Lời giới thiệu.” Trong Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, hai thời khắc đầu thế kỷ, tr.11-15. NXB Văn Hóa Sài Gòn và Đại học Hoa Sen, 2007.